Quyết định số 3806/QĐ-BGDĐT ngày 29/11/2024 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành về Bộ chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số đối với sở giáo dục và đào tạo, phòng giáo dục và đào tạo đang nhận được nhiều sự quan tâm của các cơ quan chuyên môn quản lý giáo dục ở địa phương.
Theo Bộ chỉ số, mức độ chuyển đổi số đối với các cơ quan chuyên môn quản lý giáo dục ở địa phương được đánh giá theo thang điểm tối đa là 100 điểm, kết quả được đánh giá ở ba mức độ:
Mức chưa đáp ứng (Mức độ 1): Tổng điểm đánh giá của Bộ chỉ số dưới 50 điểm. Ở mức này, cơ quan chuyên môn quản lý giáo dục ở địa phương chưa đáp ứng công tác chuyển đổi số.
Mức đáp ứng cơ bản (Mức độ 2): Tổng điểm đánh giá của Bộ chỉ số từ 50 đến 75 điểm. Ở mức này, cơ quan chuyên môn quản lý giáo dục ở địa phương đã đáp ứng cơ bản công tác chuyển đổi số.
Mức đáp ứng tốt (Mức độ 3): Tổng điểm đánh giá của Bộ chỉ số trên 75 điểm. Ở mức này, cơ quan chuyên môn quản lý giáo dục ở địa phương đáp ứng tốt công tác chuyển đổi số.
Trên thực tế, quá trình triển khai thực hiện chuyển đổi số ngành giáo dục địa phương nhằm đáp ứng các mức độ theo Bộ chỉ số đánh giá còn gặp nhiều khó khăn về nguồn lực: kinh phí, đội ngũ.
Mức độ đáp ứng Bộ chỉ số chưa đồng nhất giữa các địa phương
Được biết hiện nay, chuyển đổi số Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Bắc Trà My (tỉnh Quảng Nam) đạt mức độ đáp ứng tốt (Mức độ 3) theo Bộ chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số đối với sở giáo dục và đào tạo, phòng giáo dục và đào tạo.
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, thầy Phan Ngọc Nam – Phó Trưởng phòng Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Bắc Trà My cho hay, chuyển đổi số ngành giáo dục tạo ra môi trường làm việc đa dạng, linh hoạt và tương tác cao.
“Nhờ chuyển đổi số, Phòng, các đơn vị trường học trên địa bàn huyện có thể chủ động, linh hoạt, tương tác và thảo luận mọi lúc, mọi nơi, cập nhật thông tin, nhiệm vụ một cách nhanh chóng, chủ động hơn trong công việc.
Từ việc tiếp thu kiến thức, kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin qua các lớp, khóa học, bồi dưỡng, công chức của Phòng, cán bộ quản lý các đơn vị trường học ở huyện đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong ngành giáo dục huyện”, thầy Nam cho biết.
Cùng chia sẻ, thầy Nguyễn Tiến Thịnh – Phó Trưởng phòng Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Eakar (tỉnh Đắk Lắk) cho hay, đối chiếu với Bộ chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số đối với sở giáo dục và đào tạo, phòng giáo dục và đào tạo, hiện tại, Phòng đạt mức đáp ứng cơ bản (Mức độ 2).
“Chuyển đổi số của Phòng đạt mức đáp ứng cơ bản là kết quả của sự quan tâm chỉ đạo, đầu tư của địa phương đối với chuyển đổi số trong giáo dục của huyện. Năm 2022, địa phương có Đề án số 264 về thực hiện các khâu đột phá về công nghệ thông tin, ngoại ngữ và hoạt động trải nghiệm trong ngành giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030. Trong đó, có mảng nội dung quan trọng về ứng dụng công nghệ công tin, chuyển đổi số đối với giáo dục huyện”, thầy Thịnh chia sẻ.
Đánh giá cao việc ban hành Bộ chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số, Thạc sĩ Bùi Ngọc Lâm – Tổ trưởng Tổ Công nghệ thông tin, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hòa Bình cho rằng, đối với Sở, Bộ chỉ số giúp đánh giá được công tác chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị trong phạm vi quản lý của sở thực hiện chuyển đổi số. Các tiêu chí, yêu cầu bắt buộc, mức điểm đánh giá được quy định cụ thể giúp cho các đơn vị có định hướng, kế hoạch phấn đấu, nhằm tập trung thực hiện hiệu quả chuyển đổi số.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, việc thực hiện chuyển đổi số ở không ít địa phương còn gặp khó khăn, mức độ đáp ứng theo Bộ chỉ số chưa cao.
Bàn về điều này, Thạc sĩ Bùi Ngọc Lâm cho biết, mặc dù lãnh đạo Sở rất quan tâm nhưng hiện nay Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hòa Bình mới chỉ tiệm cận mức độ 2 theo Bộ chỉ số.
Thứ nhất, Sở gặp khó khăn trong thực hiện chuyển đổi số vì hạn hẹp về kinh phí; các văn bản chỉ đạo gần đây có đề cập đến chuyển đổi số nhưng ngân sách chi cho chuyển đổi số trong giáo dục chưa rõ ràng; địa phương chưa biết sử dụng nguồn kinh phí từ đâu để thực hiện chuyển đổi số. Điều này làm cho kế hoạch chuyển đổi số của Sở khó triển khai vì chậm, thậm chí không được phê duyệt kinh phí thực hiện.
“Ngành giáo dục tỉnh Hòa Bình triển khai chuyển đổi số nhưng không có nguồn kinh phí từ ngân sách nên khó khăn chồng chất.
Không có cơ chế chính sách thực hiện chuyển đổi số thì địa phương sẽ rất khó triển khai. Tháo gỡ điểm nghẽn về kinh phí sẽ góp phần khơi thông được những vướng mắc, bất cập trong thực hiện chuyển đổi số ngành giáo dục tỉnh”, Thạc sĩ Bùi Ngọc Lâm chia sẻ.
Cũng theo thầy Lâm, các cơ sở giáo dục ở địa phương muốn chuyển đổi số thì ít nhất phải có nền tảng số nhưng hiện nay hầu hết các nền tảng này là đi thuê, kinh phí chi trả được trích từ các nguồn chi khác của cơ sở giáo dục trong khi nguồn chi này cũng rất hạn chế.
Thứ hai, hiện nay cán bộ phụ trách công tác ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số ở Sở phải làm nhiều việc khác; còn tại cơ sở giáo dục hiện nay chủ yếu sử dụng đội ngũ giáo viên Tin học để triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong khi chưa có một chế độ nào dành cho đội ngũ này. Chính vì thế, hiệu quả thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục của tỉnh chưa đạt như kỳ vọng.
Trong khi đó, thầy Nam cũng đánh giá, việc chuyển đổi số ngành giáo dục địa phương đối mặt với nhiều thách thức.
Cụ thể, tại một số trường, giáo viên còn tâm lý e ngại, lo lắng rằng công nghệ số có thể thay thế cách dạy học truyền thống. Tuy nhiên, sau quá trình triển khai, việc ứng dụng công nghệ trở thành công cụ hỗ trợ giúp giáo viên giảm bớt áp lực trong việc chuẩn bị và tổ chức bài giảng, từ đó giúp việc dạy học thêm sinh động, hiệu quả.
Chưa kể, tại vùng sâu, vùng xa, việc thiếu hạ tầng internet và công nghệ cũng ảnh hưởng đến việc triển khai chuyển đổi số. Hơn nữa, một số trường chưa có kế hoạch chi tiết hoặc không biết bắt đầu từ đâu trong việc tích hợp công nghệ số vào hệ thống giảng dạy. Do đó, cần có sự hỗ trợ, tư vấn hoặc có kế hoạch, lộ trình mẫu để xây dựng, triển khai các chiến lược chuyển đổi số trong giáo dục một cách hiệu quả và bền vững.
Bên cạnh đó, công cụ và cơ sở hạ tầng phục vụ chuyển đổi số còn thiếu; học liệu số không đồng nhất gây khó khăn trong việc cung cấp nguồn tri thức chất lượng….
Đồng tình với những chia sẻ trên, thầy Thịnh cho rằng, bên cạnh đội ngũ thì cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật là yếu tố quyết định đến hiệu quả chuyển đổi số trong giáo dục.
“Để có cơ sở hạ tầng số tốt thì phải có kinh phí để phục vụ triển khai. Tuy nhiên, kinh phí thực hiện nhiệm vụ này còn đang là vấn đề nan giải đối với ngành giáo dục huyện.
Nếu địa phương được Nhà nước đầu tư hạ tầng công nghệ số, chắc chắn các cơ quan chuyên môn quản lý giáo dục sẽ tiếp tục nâng cao hiệu quả chuyển đổi số”, thầy Thịnh bày tỏ.
Nhà nước cần đầu tư hạ tầng số
Hệ thống LMS (Learning Management System) là một nền tảng công nghệ giúp tổ chức và quản lý quá trình học tập trực tuyến. Hệ thống này không chỉ là công cụ kỹ thuật số mà còn là “chìa khóa mở cửa” cho việc cải thiện chất lượng giáo dục trực tuyến.
Hệ thống LCMS (Learning Content Management System) là hệ thống quản lý nội dung học tập, cung cấp công cụ chuyên nghiệp để xây dựng, quản lý tài liệu đào tạo đạt hiệu quả.
Tuy nhiên, việc đầu tư triển khai hệ thống LMS và LCMS ở nhiều địa phương còn gặp khó khăn, ảnh hưởng đến chất lượng chuyển đổi số ngành giáo dục nói chung.
Thầy Nam cho rằng, hệ thống LMS, LCMS cung cấp trải nghiệm học tập linh hoạt, quản lý tiến trình học tập và tạo cơ hội tương tác. Trong đó, hệ thống LMS đóng vai trò quan trọng, thúc đẩy sự phát triển nhận thức của học sinh và nâng cao hiệu suất giáo dục. Hệ thống LMS giúp thuận lợi cho việc triển khai E-Learning trong giáo dục đào tạo.
“Việc Nhà nước hỗ trợ ban đầu để triển khai nền tảng LMS trong ngành giáo dục là rất cần thiết, giúp cho người học tiếp cận, làm quen và tiến đến yêu thích hình thức giáo dục này, từng bước xã hội hóa, đảm bảo đạt hiệu quả cao nhất trong chuyển đổi số.
Đồng thời, giúp tạo lập kho học liệu số dùng chung cho toàn ngành giáo dục, giáo viên xây dựng triển khai các bài giảng trên môi trường LMS được nhanh chóng, hiệu quả hơn.
Từng đơn vị học liệu được xây dựng dựa trên nội dung kiến thức của Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, được định danh thống nhất, chia sẻ đến các hệ thống LMS.
Đo lường sự tương tác của học sinh trên học liệu sẽ được lưu trữ phục vụ cho việc phân tích, cá nhân hóa việc học, tạo nền tảng dữ liệu lớn mở đường cho việc triển khai các giải pháp AI (trí tuệ nhân tạo) trong hoạt động giáo dục”, thầy Nam chia sẻ.
Còn theo Thạc sĩ Bùi Ngọc Lâm, hiện nay, tỉnh Hòa Bình đang sử dụng nguồn lực xã hội để thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục nhưng các nguồn lực này cũng có hạn.
Thực tế, nhiều cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh vẫn thiếu máy tính để học Tin học chứ chưa nói đến việc đầu tư hạ tầng, thiết bị để triển khai LMS hay LCMS. Do vậy, với những địa phương khó khăn, hoặc không chủ động được việc xã hội hóa thì bắt buộc phải có nguồn ngân sách đầu tư của Nhà nước cho việc thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục.
Bên cạnh đó, thầy Lâm cho rằng, nếu Nhà nước chỉ dừng lại ở việc đầu tư nền tảng LMS mà không quan tâm nhiều hơn đến nền tảng LCMS, các giáo viên vừa là người sáng tạo nội dung trên hệ thống, vừa là người giám sát thực hiện thì sẽ gây khó trong quá trình triển khai, chuyển đổi số khó đạt hiệu quả như mong muốn.
Cùng đưa ra quan điểm, thầy Thịnh cho rằng, nguồn kinh phí Nhà nước đầu tư cho cơ sở hạ tầng là vấn đề mấu chốt trong thực hiện chuyển đổi số ngành giáo dục. Song, cùng với sự đầu tư của Nhà nước, việc xã hội hóa để thực hiện chuyển đổi số ngành giáo dục rất quan trọng. Tuy nhiên, tùy vào đặc điểm kinh tế xã hội, cơ chế chính sách từng địa phương, việc huy động nguồn lực xã hội hóa phục vụ chuyển đổi số giáo dục không dễ dàng.
Liên quan đến công tác đội ngũ, thầy Thịnh chia sẻ thêm, hiện nay các chuyên viên của Phòng làm công tác chuyển đổi số đều trên tinh thần kiêm nhiệm, công việc rất bận rộn nên chưa thể toàn tâm toàn ý thực hiện chuyển đổi số, ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả đạt Bộ chỉ số. Do đó, nếu có vị trí việc làm riêng về công nghệ thông tin và chuyển đổi số thì hiệu quả công tác chuyển đổi số ngành giáo dục của huyện sẽ tốt, bền vững hơn.
Ngọc Mai